
Rủi ro là khái niệm đầu tiên phải nhắc đến khi nói về bảo hiểm vì rủi ro và bảo hiểm gắ liền với nhau, có rủi ro mới có bảo hiểm. Vậy rủi ro là gì?
1. Định Nghĩa
Rủi ro là một điều không may mắn, không lường trước được về khả năng xảy ra, về thời gian và không gian xảy ra, cũng như không đoán trước được mức độ nghiêm trọng và hậu quả của nó.
Nhìn chung, rủi ro là nguyên nhân khách quan và không lường trước được ở bốn khía cạnh thể hiện trong định nghĩa trên. Ví dụ như ở Việt Nam thường hay có bão vào mùa hè tại miền Bắc và miền Tung nhưng không lường trước được một cách cụ thể thời điểm và thời gian xảy ra bão, cường độ của bão và thiệt hại mà bão gây ra. Cho nên bão là một rũi ro. Có loại rủi ro gây thiệt hại cho tài sản này nhưng không gây thiệt hại cho tài sản khác, như mưa đá, mưa rào, úng, hạn tác động khác nhau đến các loại cây trồng khác nhau. Vì vậy, những gì con người tự cố ý gây ra cho chính mình, những gì có thể lượng trước được về không gian và thời gian xảy ra không phải là rủi ro.
2. Mức Độ Rủi Ro
Sẽ không đúng nếu cho rằng tất cả mọi rủi ro đều có khả năng phát sinh như nhau và gây tác hai như nhau. Một ngôi nhà xây gần sông và một ngôi nhà xây cách xa sông thì nguy cơ bị rủi ro lũ lụt của hai ngôi nhà là khác nhau. Nhưng nếu ngôi nhà gần sông chỉ có giá trị bằng 1/20 ngôi nhà xa sông thì nếu xảy ra lũ lụt thì mức độ thiệt hại của ngôi nhà xây xa sông có thể vẫn lớn hơn.
Để đánh giá một rủi ro, có thể dùng hai tiêu thức sau:
– Tần suất xuất hiện rủi ro:là số lần có thể xảy ra rủi ro trong một khoảng thời gian nhất định hay là khoảng cách thời gian trung bình giữa các lần rủi ro xuất hiện. Ví dụ, cứ 30 năm xuất hiện một đợt lũ mấp mé đê sông Hồng tại Hà Nội. Như vậy tần suất xuất hiện rủi ro sẽ là 100 năm thì có trên 3 lần xuất hiện lũ lớn mấp mé đê sông Hồng. Nếu khoảng thời gian xem xét càng dài thì rủi ro xảy ra càng nhiều.
– Mức độ nghiêm trọng của rủi ro hay tính khốc liệt của tổn thất: tổn thất là hậu quả của rủi ro. Đối tượng chịu ảnh hưởng của rủi ro khác nhau thì tổn thất gây ra cũng khác nhau. Giá lạnh có thể gây tổn thất cho loại cây trồng này nhưng không gây thiệt hại cho loại cây trồng khác.
Tổn thất có nhiều dạng
– Tổn thất về bật chất, tổn thất về thu nhập: Tổn thất về vật chất và tổn thất về thu nhập có thể đo lường được và có thể bù đắp được, có thể sửa chữa, khôi phục, thay thế. Vì thế bảo hiểm chỉ bồi thường tổn thất về vật chất, tổn thất về thu nhập.
– Tổn thất về tinh thần tình cảm: như mất đi người thân ruột thịt, mất đị bộ ảnh cưới là những tổn thất khó đo được giá trị cũng như khó có cách nào bù đắp được.
– Tổn thất về tính mạng, sức khoẻ con người: đây là tổn thất không có gì đo được và không thể lượng hóa giá trị bằng tiền. Tuy nhiên, người ta có thể thỏa thuận với nhau số tiền bảo hiểm sẽ trả trong trường hợp chết người, mất chân, mất tay v.v…, Có thể lượng hoá được sức khỏe con người bằng tỷ lệ % mất khả năng lao động.
Ngoài ra, tổn thất có thể không đáng kể hoặc không quá lớn tới mức người ta không thể đánh giá được giá trị thiệt hại. Đối với tổn thất không đáng kể, người được bảo hiểm có thể tự khắc hục được bằng khả năng tài chính của mình. Họ sẽ tự bảo hiểm và chỉ tham gia bảo hiểm những tổn thất lớn hơn. Mức độ nghiêm trọng của tổn thất cũng rất khác nhau. Có những tổn thất lớn tới mức một doanh nghiệp bảo hiểm riêng lẻ hoặc nhiều doanh nghiệp phối hợp với nhau cũng không thể bù đắp được. Những rủi ro như vậy thường bị loại trừ, không nhận bảo hiểm, mà thường được xử lý bằng các biện pháp của Chính phủ, của toàn xã hội.
Mối quan hệ giữa tần suất và tính nghiêm trọng của rủi ro
Có những rủi ro tầ suất xuất hiện thấp và không nghiêm trọng, ví dụ như người đi bộ trên vỉa hè thì ít gặp tai nạn, nếu có vấp ngã thì thiệt hại không đáng kể. Những rủi ro như vậy, người ta thường không có nhu cầu bảo hiểm.
Có những rủi ro có tần suất xuất hiện cao, tính khóc liệt thấp. Ví dụ, những vụ tai nạn giao thông nhỏ xảy ra rất nhiều nhưng thiệt hại về người và tài sản không đáng kể. Người có lỗi chỉ cần ngỏ lời xin lỗi và hai bên có thể từ hòa giải.
Ngược lại, có những rủi ro tần suất xuất hiện thấp nhưng tính khốc liệt cao. Ví dụ, như tai nạn máy bay có tần suất xuất hiện thấp, nhưng thiệt hại gây ra có thể rất lớn, bao gồm thiệt hại về máy bay, hành khách trên chuyến bay và có thể cả người và tài sản trên mặt đất. Mặt khác, có những rủi ro tần suất xuất hiện cao và tính khốc liệt cũng cao. Ví dụ như các công trình xây dựng nằm cận kề bên dòng suối dễ bị lũ quét tàn phá, cây trồng trên cánh đồng trũng dễ bị mưa làm úng ngập. Nhận bảo hiểm loại rủi ro này là một sự mạo hiểm đối với các doanh nghiệp bảo hiểm.
Tóm lại: Đánh giá tần suất xuất hiện và tính nghiêm trọng của rủi ro là cần thiết để có phương án bảo hiểm thích hợp. Điều này không những có ý nghĩa quan trọng đối với khách hàng mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm.
3. Rủi Ro Gốc Và Tình Tiết Rủi Ro
Một rủi ro khi được áp vào một đối tượng cụ thể nào đó thì sẽ luôn có 2 phần: rủi ro gốc và tính tiết rủi ro. Ví dụ: khi nói bảo hiểm rủi ro lũ lụt cho một ngôi nhà thì rủi ro đó gồm 2 phần: một phần là rủi ro gốc và một phần là tình tiết rủi ro. Rủi ro gốc ở đây là lũ lụt.
Tình tiết rủi ro: là những yếu tố có thể làm tăng hoặc giảm nhẹ rủi ro, cả về tần suất xuất hiện và mức độ nghiêm trọng. Có hai loại tình tiết rủi ro:
+ Tình tiết vật chất: là những tình tiết liên quan đến khía cạnh vật chất của rủi ro. Ví dụ: như kết cấu ngôi nhà (kiên cố hay không kiên cố); vị trí ngôi nhà (ở bờ sông hay ở trên đồi), giá trị ngôi nhà, tài sản có trong nhà, phương thức bảo vệ, thiết bị phòng cháy chữa cháy …
+ Tình tiết tinh thần: là những tình tiết liên quan đến thái độ của người được bảo hiểm. Ví dụ: một chiếc xe được bảo hiểm thì khả năng xảy ra rủi ro cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của người lái xe: ý thức bảo quản, sử dụng xe tốt, mẫn cán kiểm tra độ an toàn của xe trước khi xe chuyển bánh, lái xe cẩn thận…
Khi khai thác bảo hiểm, chính là phải xem xét kỹ các tình tiết rũi ro. Còn rủi ro gốc khi xảy ra là đường nhiên. Phí bảo hiểm của một rủi ro nào đấy phụ thuộc khá nhiều vào tình tiết rủi ro.
4. Phân Loại Rủi Ro
4.1 Rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính
– Rủi ro tài chính là rủi ro mà hậu quả của nó có thể đo được bằng tiền. Tài sản bị hư hỏng sẽ dẫn đến thiệt hại về tài cính, đó là chi phí khôi phục, sửa chữa tại sản, chi phí thay thế bộ phận tài sản bị hỏng, chi phí mua tài sản khác tương tự thay thế tài sản đã bị hư hại, thiệt hại do gián đoạn kinh doanh.
– Những thiệt hại liên quan đến tổn thất về người cũng có thể đánh giá bằng tiền, đó là chi phí điều trị, thu nhập bị giảm sút do mất khả năng lao động v.v…
– Rủi ro phi tài chính là những rủi ro không đo được bằng tiền. Ví dụ, bạn mua một cái xe máy hay đặt một món ăn không hợp sở thích. Đây cũng có thể coi là một rủi ro nhưng hậu quả của nó không gây thiệt hại tài chính, mà chỉ làm cho bạn cảm thấy không hài lòng. Điều này cũng có thể xảy ra khi chọn vợ, mua nhà v.v… Đó là những rủi ro phi tài chính.
4.2 Rủi ro thuần tuý và rủi ro đầu cơ
– Rủi ro thuần túy là những rủi ro chỉ có thể dẫn đến thiệt hại hoặc may mắn lắm là hòa vốn, không có nhân tố kiếm lời ở bên trong. Hậu quả của nó chỉ có thể là không may đối với chúng ta, không may ít hoặc không may nhiều chứ không thể có chuyện có lãi. Loại rủi ro này bao gồm rủi ro tai nạn giao thông, cháy nhà, mất trộm tài sản, bị tai nạn lao động v.v..
– Rủi ro đầu cơ là những rủi ro có nhân tố kiếm lời ở bên trong. Đầu tư vào cổ phiếu là một ví dụ. Việc đầu tư này có thể bị lỗ hoặc hoà vốn, nhưng mục đích của nó là kiếm lời. Kinh doanh chứng khoán, đầu cơ nông sản thực phẩm, đầu cơ tích trữ hàng hoá khác thuộc loại rủi ro này.
4.3 Rủi ro riêng và rủi ro chung
– Rủi ro chung là những rủi ro nằm ngoài vòng kiểm soát và gây hậu quả cho rất nhiều người, cho xã hội nói chung.Bao gồm các thảm họa thiên tai như động đất, lũ lụt, núi lửa phun, thường xảy ra trên diện rộng, gây thiệt hại cho nhiều người. Vì vậy người ta cho rằng việc khắc phục rủi ro này là trách nhiệm của toàn xã hội, thậm chí phải cần đến trợ cấp của Chính Phủ và Quốc Tế. Các doanh nghiệp bảo hiểm không đủ sức gánh vác.
– Rủi ro riêng là những rủi ro chỉ gây thiệt hại cho một hoặc một số ít người. Những rủi ro này thường mang tính chất cá nhân cả về nguyên nhân lẫn hậu quả. Đó là những rủi ro hoả hoạn, trộm cướp, thương tích, chết người …
4.4 Rủi ro có thể được bảo hiểm
Không phải rủi ro nào cũng có thể được bảo hiểm. Cơ chế chuyển giao rủi ro cũng có nhưng hạn chế, sẽ không sáng suốt nếu để cho người ta hưởng lợi từ những hành động phạm tội của mình. Cũng sẽ không đúng nếu để cho một người nào đó tự mua bảo hiểm cho ngôi nhà của hàng xóm, sau đó đốt ngôi nhà đó để nhận tiền bồi thường. Dù không có ý định phạm tội thì cũng sẽ không đúng nếu để cho một người nào đó được hưởng lợi từ việc cháy ngôi nhà hàng xóm trong khi người đó không hề có quyền lợi gì trong ngôi nhà bị cháy.
Vì vậy, cần phải có một vài ý niệm về cái có thể được bảo hiểm và cái không thể được bảo hiểm. Chúng ta sẽ hiểu được điều đó khi xem xét các đặc tính và tính chất của những rủi ro có thể được bảo hiểm. Tuy nhiên, có một điểm quan trọng cần nêu lên là không nên giáo điều vì ranh giới của những rủi ro có thể được bảo hiểm và những rủi ro không thể bảo hiểm có thể thay đổi… Thế giới kinh doanh không phải là một môi trường tĩnh. Nó có thể thay đổi để điều chỉnh các tình huống theo ý muốn, cái mà ngày hôm nay coi là không thể được bảo hiểm thì ngày mai lại có thể trở thành cái có thể được bảo hiểm.
4.5 Rủi ro được bảo hiểm và rủi ro loại trừ
Cần phân biệt rủi ro có thể được bảo hiểm và rủi ro được bảo hiểm. Một rủi ro muốn được bảo hiểm hay được nhận bảo hiểm thì trước hết phải là rủi ro có thể được bảo hiểm. (Rủi ro có thể được bảo hiểm đã trình bày ở phần trên).
Rủi ro được bảo hiểm: là những rủi ro về thiên tai, tai nạn, sự cố bất ngờ được doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm. Nếu những rủi ro này xảy ra sẽ gây thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm và làm phát sinh trách nhiệm bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm. Rủi ro được bảo hiểm có thể bao gồm: rủi ro tài chính, rủi ro thuần tuý, rủi ro riêng. Thông thường các rủi ro phi tài chính, rủi ro đầu cơ và rủi ro chung bị loại trừ, không thuộc rủi ro bảo hiểm. Tuy nhiên, không thế giáo điều vì quan điểm của thị trường bảo hiểm lúc này hay lúc khác có thể thay đổi. Rủi ro được bảo hiểm thường được nêu trong quy tắc bảo hiểm hoặc điều khoản bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm. Nhưng trong nhiều trường hợp, đơn bảo hiểm chỉ liệt kê những rủi ro bị loại trừ, những rủi ro không bị loại trừ mặc nhiên là những rủi ro được bảo hiểm.
Rủi ro loại trừ: bao gồm những rủi ro mà người bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm, không chấp nhận bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm nếu chúng xảy ra.
Các rủi ro loại trừ: có thể cũng không cố định, lúc thế này lúc thế khác tuỳ theo quan điểm của nhà bảo hiểm. Nhưng cũng có những rủi ro dứt khoát bị loại trừ như hành vi cố ý của người tham gia bảo hiểm.